Ôn tập kiểm tra học kì lịch sử a1k44 THPT Bất Bạt


MIỀN NAM CHỐNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA ĐẾ QUỐC MĨ (1961 – 1965)


1. Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mĩ ở miền Nam

1.1. Âm mưu chiến lược mới của Mĩ – “chiến tranh đặc biệt”


Sau phong trào Đồng Khởi, chiến lược chiến tranh đơn phương hoàn toàn thất bại, của Mĩ – Ngụy phải đối mặt với một thực tế là phong trào cách mạng miền Nam đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Để tránh thất bại hoàn toàn ở miền Nam, Mĩ đề ra chiến lược chiến tranh mới – “chiến tranh đặc biệt”.

Đây là hình thức chiến tranh xâm lược mới của Mĩ được tiến hành bằng quân đội tay sai dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn quân sự Mĩ, dựa vào vũ khí, trang thiết bị kĩ thuật và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mĩ nhằm chống lại lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Thực chất đây là âm mưu dùng người Việt đánh người Việt của Mĩ.

Lúc đầu, Mĩ dự định thực hiện chiến lược này bằng kế hoạch Stalay-Taylor với mục tiêu bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Nhưng Mĩ đã không thành công và phải giảm mục tiêu xuống bằng một kế hoạch mới – kế hoạch Giôn-xơn – Mác-na-ma-ra – bình định miền Nam có trọng điểm trong vòng 2 năm (1964 - 1965)

1.2. Mĩ – Ngụy triển khai chiến lược “chiến tranh đặc biệt”

Mĩ đã tăng cường viện trợ quân sự cho Ngô Đình Diệm, đưa lực lượng cố vấn quân sự và hỗ trợ chiến tranh vào miền Nam Việt Nam với số lượng ngày càng lớn: Cuối năm 1960: 1.100, cuối 1962: 11.000, cuối 1964: 26.000.

Ngày 08/02/1962, Bộ chỉ huy quân sự Mĩ được thành lập ở Sài Gòn.

Ngụy ra sức bắt lính để tăng nhanh quân số: giữa năm 1961: 170.000 quân, đến cuối năm 1964: 560.000 quân.

Quân đội Sài Gòn được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, đặc biệt là chúng đưa vào sử dụng chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận”.

“Ấp chiến lược” được Mĩ và Ngụy coi như “xương sống” của “chiến tranh đặc biệt”, chúng đã ráo riết tiến hành dồn dân, lập “ấp chiến lược” để tách lực lượng cách mạng khỏi quần chúng, “tát nước bắt cá”, tiến tới năm dân và “bình định” miền Nam.

Dựa vào sự hỗ trợ và chỉ huy của cố vấn Mĩ, Ngụy liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng; tiến hành nhiều họat động phá hoại miền Bắc, kiểm soát, phong tỏa biên giới, vùng biển để ngăn chăn sự tiếp viện của miền Bắc vào miền Nam.

2. Quân dân miền Nam chiến đấu chống “chiến tranh đặc biệt”

2.1. Hoàn chỉnh về tổ chức lãnh đạo cách mạng


Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Tháng 01/1961, Trung ương cục miền Nam thành lập thay cho Xứ ủy Nam bộ cũ.

Ngày 15/02/1961, các lực lượng vũ trang cách mạng đã thống nhất thành quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

2.2. Đánh bại kế hoạch Stalây – Taylor 1961 – 1963

Trên mặt trận chính trị:

Ngày 8/5/1963, 2 vạn tăng ni, phật tử ở Huế biểu tình phản đối chính quyền Diệm cấm treo cờ phật. Diệm đàn áp làm cho phong trào lan rộng khắp cả nước.

Ngày 11/6/1963, tại Sài Gòn, hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối Diệm đàn áp Phật giáo.

Ngày 16/6/1963, 70 vạn quần chúng Sài Gòn biểu tình làm cho chế độ Mĩ Diệm lay chuyển.

Trước tình hình đó, ngày 01/11/1963, Mĩ đã ủng hộ Dương Văn Minh làm đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm.

Trên mặt trận chống và phá “Ấp chiến lược”:

Cuộc đấu tranh giữa ta và địch trong việc lập và phá “ấp chiến lược” diễn ra gay go và quyết liệt. Đến cuối năm 1962, gần 8000 ấp chiến lược với 70% nông dân toàn miền Nam vẫn còn do cách mạng kiểm soát.
Trên mặt trận quân sự:

Năm 1962, quân giải phóng cùng với nhân dân đã liên tiếp đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét của Ngụy vào chiến khu Đ, Tây Ninh, phía Bắc và Tây Bắc Sài Gòn…

Đặc biệt, tháng 01/1963, quân dân miền Nam đã giành chiến thắng vang dội ở Ấp Bắc – Mĩ Tho. Với lực lượng ít hơn địch 10 lần, ta đã đánh bại cuộc hành quân càn quét của hơn 20000 quân ngụy dưới sự chỉ huy của cố vấn Mĩ và hỗ trợ của pháo binh, xe bọc thép và máy bay lên thẳng; diệt 450 tên địch, 8 máy bay, 13 xe bọc thép.

Chiến thắng Ấp Bắc chứng tỏ quân dân miền Nam có khả năng đánh bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận” của Mĩ – Ngụy và làm bùng lên phong trào “thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công ” trên khắp miền Nam.

Kết luận: những thắng lợi của ta trên khắp các mặt trận đã làm cho Mĩ – Ngụy không thể hoàn thành kế hoạch Stalây-Taylor trong 18 tháng như dự định.

2.3. Đánh bại kế hoạch Giôn xơn – Mác-na-ma-ra (1964 – 1965)

Trước sự thất bại của kế hoạch Stalây-Taylor, năm 1964, Giôn-xơn đã đưa ra kế hoạch Giôn-xơn – Mác-na-ma-ra để tiếp tục thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt với mục tiêu bình định miền Nam có trọng điểm trong vòng 2 năm (1964 - 1965).

Trên mặt trận chính trị

Phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị (Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng) tiếp tục lên cao, đặc biệt là sau khi Nguyễn Khánh ra những sắc lệnh phát xít mới và chính quyền Ngụy sát hại Nguyễn Văn Trỗi (15/10/1964).

Trên mặt trận chống phá “Bình định”

Trong năm 1964 và đầu năm 1965, từng mãng lớn ấp chiến lược do địch lập nên đã bị ta phá, nhiều ấp chiến lược đã trở thành căn cứ cách mạng, vùng tự do của ta ngày càng được mở rộng.

Trên mặt trận quân sự

Kết hợp với đấu tranh chính trị, quân dân Đông Nam Bộ mở chiến dịch tiến công Đông – Xuân 1964-1965:

Ngày 02/12/1964, quân ta đã thắng lớn ở Bình Giã (Bà Rịa), tiêu diệt 17000 tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.

Sau chiến thắng Bình Giã, quân ta mở tiếp chiến dịch xuân – hè 1965 và đã liên tiếp giành được thắng lợi ở An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Biên Hòa); đánh dấu sự phá sản của kế hoạch Johnson – Mc. Namara.

Kết luận: sự phá sản của hai kế hoạch Stalay-taylor và Johnson-Mc. Namara đã làm cho chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ thất bại hoàn toàn.



III- CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” VÀ “ĐÔNG DƯƠNG HÓA CHIẾN TRANH” CỦA MĨ (1969 – 1973)
1. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh “ và “Đông Dương hoá chiến tranh”của Mĩ

a-Hoàn cảnh: Sau thất bại của “Chiến tranh cục bộ”, Ních-xơn tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền Nam, chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương , thực hiện chiến lược “Đông Dương hoá chiến tranh”.

b-Âm mưu, thủ đoạn:

-“Việt Nam hóa chiến tranh” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hoả lực, không quân, hậu cần Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn .
-Thực chất, là sự tiếp tục thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt”, “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
-Mĩ còn dùng thủ đoạn ngoại giao nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước XHCN đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

2. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh”của Mĩ
a- Trên mặt trận chính trị - ngoại giao


- Ngày 6-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam thành lập. Đây là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam, vừa mới ra đời đã được 23 nước trên thế giới công nhận, trong đó có 21 nước chính thức đặt quan hệ ngoại giao

- Ngày 24 và 25 -4-1970, ba nước Lào, Việt Nam, Campuchia đã họp Hội nghị cấp cao đã biểu thị quyết tâm đoàn kết chống Mĩ của nhân dân Đông Dương.

-Ở các đô thị miền Nam, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục. Đặc biệt là tại Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào của học sinh, sinh viên diễn ra rất rầm rộ, lôi cuốn đông đảo giới trẻ tham gia.

-Tại các vùng nông thôn, phong trào “phá ấp chiến lược”, chống “bình định” nông thôn diễn ra rất quyết liệt. Đến đầu năm 1971, cách mạng đã giành quyền làm chủ thêm 3.600 “ấp chiến lược” với hơn 3 triệu dân.

b-Trên mặt trận quân sự
-Từ ngày 30-4 đến ngày 30-6-1970, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và nguỵ Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân

-Từ ngày 12-2 đến ngày 23-3-1971, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Lào đập tan cuộc hành quân “Lam sơn 719” của 4,5 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến 22.000 tên địch, buộc chúng phải rút khỏi Đường 9-Nam Lào; giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương .

*Ý nghĩa:
-Làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch theo chiều hướng có lợi cho ta, tạo điều kiện để ta mở cuộc Tiến công chiến lược năm 1972

3. Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972

-30-3-1972, ta mở cuộc Tiến công chiến lược đánh vào Quảng Trị rồi phát triển rộng khắp miền Nam

-Đến cuối tháng 6-1972, ta chọc thủng 3 phòng tuyến manh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu 20 vạn quân nguỵ, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn.

-Ý nghĩa: giáng đòn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hoá” trở lại chiến tranh xâm lược (tức là thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”).

0 Coimments:



Khi bạn viết bình luận, cần tuân thủ một số quy tắc sau:

Bình luận nghiêm túc, không xúc phạm
CẤM CHỬI TỤC
---CÓ gì từ từ nói !---

Comment nhiều sẽ giải thưởng
Chỉ HELP để được trợ giúp

───>
Help ?Nhấn vào biểu tượng hoặc kiểu chữ hoặc chèn link sau đó nhấn nút Chọn rồi copy (Ctrl + C) để paste (Ctrl + V) vào khung viết bình luận. Mã hóa code nếu bạn muốn đưa code vào bình luận. Chữ Ngược Kute Text Chữ đậm Chữ nghiêng Chèn Link Chèn Link Thank !

Chọn Xóa