I. CÁCH ĐẶT VẤN ĐỀ :
Cách
A:1. Văn chương kết tinh vẻ đẹp của thời đại. Âm vang của lịch sử dường
như đọng lại đẹp nhất, rực rỡ nhất trên những trang thơ. Mỗi câu chữ,
hình ảnh thơ ngưng tụ hồn sông núi, ghi nhận ấn tượng sâu sắc cảm động
nhất của một đời người. Hạnh phúc nhất của người cầm bút có lẽ là lúc
tạo được dấu ấn nghệ thuật không phai mờ trong tâm trí người đọc mọi thế
hệ.
2. Việt Bắc của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng
chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ đi vào lòng người
bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm
của những người con rời “thủ đô kháng chiến”, thâm tâm đầy ắp kỷ niệm
nhớ thương.
3. Trong tâm trạng kẻ ở - người đi, hình bóng của núi
rừng – con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ
mà cảm động. Để hôm nay, những câu thơ còn rung động lòng người với
những sắc màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm
của tình người lan toả : “Ta về ... ân tình thuỷ chung”.
Cách B: 1.
Là người, ai cũng có một miền đời để nhớ để thương. Có những mảnh đất
tuy không phải nơi chôn nhau cắt rốn nhưng vẫn không bao giờ phai mờ
trong tâm khảm. Bởi đó là máu thịt, là nơi ghi lại kỷ niệm đẹ p nhất của
một đời người. Như Chế Lan Viên đã từng triết lý : “Khi ta ở chỉ là nơi
đất ở - Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
2. Việt Bắc – quê hương của
kháng chiến, cách mạng trong những ngày đầu tiên của nền dân chủ cộng
hoà đã trở thành biểu tượng của tấm lòng gắn bó thuỷ chung với cách
mạng, dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại mối tình sắt son đậm đà “mười
lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” trong bài thơ Việt Bắc , bằng tất cả cảm
xúc nồng nàn của một hồn thơ đằm thắm thuỷ chung.
3. Qua bao năm
tháng, biến động của lịch sử, tiếng nói thiết tha ấy vẫn rung cảm lòng
người, Việt Bắc của ngày xưa vẫn nguyên vẹn trong lòng người hôm nay:
“Ta về ... ân tình thuỷ chung”. Tiếng lòng ân tình thuỷ chung ngày ấy
phải chăng đã thấm sâu vào mạch ân tình chung thuỷ của thi ca dân tộc,
cho nên khoảng cách thời gian không làm nhạt nhoà ấn tượng về một vùng
rừng núi chiến khu xưa hùng vĩ nên thơ?
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
A. Cảm nhận chung :
1.
Điều làm nên sức sống diệu kỳ của bài thơ Việt Bắc nói chung và đoạn
thơ nói riêng là giọng điệu thơ ngọt ngào, dân dã đậm sắc màu ca dao.
Mạch tình cảm như suối ngầm ẩn tàng trong tâm hồn người Việt. Đó cũng là
đặc trưng cơ bản của phong cách thơ Tố hữu – luôn đậm đà tính dân tộc.
2.
Tâm tình lại gắn với hình ảnh quê hương – với những nét gợi thương gợi
nhớ - là mạch tâm linh chảy suốt chiều dài lịch sử, chạm vào sợi dây
tình cảm thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam “Anh đi anh nhớ quê
nhà...”
3. Cảm hứng chính trị xuyên suốt một đời thơ Tố Hữu. Với tâm
tình, lẽ sống của nhà thơ, Việt Bắc là kết tinh của tình cảm riêng –
chung. Hoà điệu tự nhiên của hai luồng tình cảm : dân tộc và cách mạng.
tiếng nói của nhân vật trữ tình nhập vai cũng chính là những suy ngẫm,
tình cảm của nhà thơ. Thật khó tách bạch chủ thể và nhân vật. Ở đó là
một cái tôi gắn với phẩm chất và tình cảm dân tộc, tiếng nói riêng tư
“mình – ta” đã nói hộ tấm lòng của nhân dân và những người con cách
mạng. Chất tự sự - trữ tình chính trị như những lời thầm thỉ tâm sự cùng
mọi người, thuyết phục lòng người.
B. Phân tích chi tiết :
1. Nỗi nhớ :
a.
Là cảm xúc chủ đạo của toàn bộ bài thơ, gắn với “ta – mình”, “mình –
ta”, là cung bậc thiết tha của tình cảm, là miền ký ức không phai mờ của
người ra đi.
b. Nỗi nhớ ở đây mượn nguyên màu sắc ca dao, là sự nối
tiếp, là khía cạnh tinh vi trong quan hệ khắng khít: hoa – người. Quê
hương hiện hình trong vẻ đẹp cụ thể: vẻ đẹp tinh tuý của thiên nhiên
(hoa) hoà hợp với vẻ đẹp và sức sống của con người.
c. Mỗi một hình
ảnh “hoa cùng nguời” như đem lại ấn tượng riêng biệt về nét đẹp núi rừng
Việt Bắc. Sự nối tiếp, đan xen sắc màu làm nên mạch cảm xúc của đoạn
thơ, nỗi nhớ qua từng câu càng đậm đà và mãnh liệt hơn. Trên cơ sở đó,
nhà thơ hướng toàn bộ tâm tư về con người – nhân dân với những phẩm chất
bình thường mà vĩ đại.
2. Bức vẽ quê hương :
a. Tố Hữu đã khéo
léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca –
gói trọn bốn mùa Xuân – Hạ - Thu – Đông trong những sắc màu đẹp nhất,
hài hoà nhất. Bước luân chuyển của thời gian được tác giả chọn ở những
thời điểm nên thơ, tạo ấn tượng không phai mờ trong ký ức. Nhớ cảnh để
nhớ người.
b. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Nét
son của bức tranh núi rừng ở đây là màu đỏ tươi của hoa chuối. Chấm phá
của tranh thuỷ mặc điểm một sắc đỏ trong không gian xanh bao la, không
gian mang sức sống mãnh liệt. Ở đấy là cách nhìn của thi nhân Á Đông,
người đọc có thể nhớ đến một cảm xúc quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi :
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ... (Bảo kính cảnh giới 43)
Mùa
đông trong câu thơ Tố Hữu cũng lan toả hơi ấm của mùa hè, không hề có
cảm giác lạnh lẽo, bởi sắc đỏ hoa chuối cũng như phun trào từ giữa màu
xanh của rừng.
Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp của người thật
khoẻ khoắn “Nắng ánh dao gài thắt lưng” là hình ảnh người dân miền sơn
cước. Cách hoán dụ không phải tình cờ ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng
– vật bất ly thân của người miền núi – nét đặc trưng của cuộc sống Việt
Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật trong ánh
nắng , thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông, mang trong mình
nét hiên ngang hùng vĩ kiêu hãnh của núi rừng.
c. Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Không
gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan toả
khắp núi rừng Việt Bắc. Giữa nền trắng hoa mơ, nổi bật hình ảnh “người
đan nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết “chuốt từng sợi giang”.
Người Việt Bắc hiện lên ở nét đẹp cần mẫn, chịu thương chịu khó. Trong
cách tả không có một âm vang nào của núi rừng, nhưng vẻ đẹp của mùa xuân
vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người. Sợi nhớ, sợi thương đan dày
trong tâm tưởng, con người đẹp tự nhiên trong những công việc tỉ mẩn
hàng ngày.
d. Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Không
gian nỗi nhớ hình như rõ nét nhất, đậm đà nhất trong bức tranh mùa hạ.
Và cũng đọng lại hình ảnh ngọt ngào thân thương nhất của “cô em gái hái
măng”. Câu thơ tả cảnh giàu sức biểu cảm, tiếng ve ran gọi màu vàng tràn
ngập không gian. Không gian lung linh hơn khi sắc vàng đổ xuống. Ấn
tượng màu vàng đẹp như bức vẽ tả thực vừa làm xao xuyến lòng người trong
tiếng ve dóng dả gọi hè, như gọi cả màu vàng đất trời về phủ kín cánh
rừng.
Nổi bật giữa khung cảnh là hình ảnh “cô em gái”. Cách gọi biểu
lộ niềm thân thương trìu mến của con người. Câu thơ gợi nhớ vẻ đẹp nên
thơ của một “cô hái mơ” trong thơ Nguyễn Bính (Thấp thoáng rừng mơ cô
hái mơ). Nhưng ở đây cô gái Việt Bắc mang vẻ đẹp khoẻ khoắn mộc mạc hơn.
Một mình nhưng không tạo cảm giác cô đơn hiu quạnh, vì cả không gian
nhuộm rực ánh vàng.
đ. Rừng thu trăng dọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Không
gian chuyển về đêm. Như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng Việt
Bắc. Đêm thu và ánh trăng như lan toả vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp
của khu rừng dưới ánh trăng gợi lên vẻ huyền ảo. Khung cảnh gọi hồn
thơ.
Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng, thành “tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Nhớ không cụ thể một đối tượng nào. Như ca dao :
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai
Tình
người bâng khuâng trong câu thơ gợi cảm xúc đồng điệu giữa kẻ ở - người
đi. Đọng lại trong nỗi nhớ là “ân tình thuỷ chung” dào dạt.
C. Tóm ý :
Đoạn
thơ diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng Việt Bắc. Mỗi mùa
mang một sắc màu riêng và bốn mùa hoà chung màu sắc đa dạng, làm nên vẻ
hấp dẫn cho bức tranh phong cảnh trữ tình.
Thời gian diễn tả tuần tự,
nhưng thời gian không làm phai nỗi nhớ. Mỗi mùa đi qua có một khoảnh
khắc đáng nhớ - đ1o là khi trái tim nhà thơ bắt nhịp cùng không gian –
cảnh vật.
Đó là tình yêu đích thực, rung động chân thành của trái tim
nhà thơ. Cũng là tấm lòng của những người con kháng chiến sâu năng với
thủ đô kháng chiến.
2 Coimments:
Bác làm dà quá.lan man
Cảm ơn bạn ! Mình sẽ chỉnh sửa ngay khi gặp đc chủ bài viết này ! :7) :7)
Góp Ý- Liên Lạc || Về Tác Giả || Tài Sản