Vợ nhặt- Kim Lân
Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông
sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện Tiên Sơn,
tỉnh Bắc Ninh.Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc
tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ
năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy”
và “Trung Bắc chủ nhật”. Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa
con người cô đầu”, ”Cô Vịa”…) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể
hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc
sống lam lũ, vất vả của người nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều
hơn khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở
thôn quê (đánh vật,chọi gà,thả chim…). Các truyện: ”Đôi chim thành”,
”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một cách sinh động những thú chơi lành
mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước
Cách mạng _những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời,
trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo,
viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt
Nam _mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm
chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập
truyện ngắn 1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không
nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một
cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn
bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói
như Nguyên Hồng, ông là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”,
với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (Bước đường viết
văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn học 12)
Với một tâm
hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân luôn đặt ra
những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi vào lòng
người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể
hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm
tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng
về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp
thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung của những ngừơi nông dân trong
thời chiến và những ao ước giản dị của họ , tạo nên sự đồng cảm và suy
nghĩ trong lòng người đọc .
Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi
sự tò mò cho người đọc.Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện hệ trọng trong
cả đời người,thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ Nhặt”,một sự gặp gỡ
tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái bối cảnh hiện thực
của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945,một trong những thời kỳ
đen tối trong lịch sử.Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập
nhoạng,mù mờ của một buổi tối chiều “chạng vạng”.Và thấp thoáng trong
thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người “xanh xám như những bóng
ma”,”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”,”những cái thây nằm cong queo bên
đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái
chết,một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một không khí
nặng nề,phản ánh được cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ mới khó
khăn,cực nhọc đến dường nào,gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha
ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo,chịu đói
rét.
Trong khung cảnh đó,nhân vật Tràng hiện lên như một con
người hoang sơ ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc
sống không ra cuộc sống.Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung
của người dân lúc bây giờ: hai con mắt gà gà,nhỏ tí,hai bên quai hàm
bạnh ra,bộ mặt thì thô kệch,thân hình thì “vập vạp”,cùng với cái kiểu
“ngửa mặt lên cười hềnh hệch”,”cái đầu trọc nhẵn”,”cái lưng to rộng như
lưng gấu”,và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay,một hình ảnh hết sức
hoang dã trong xã hội đói nghèo .Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém
phần hoang dã như thế: cành dong rấp cổng,tấm phên rấp che nhà,mảnh
vườn lổn nhổn toàn cỏ dại,mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư,loại người lúc
bấy giờ bị coi khinh,ruồng bỏ,một thứ cỏ rác hương thôn.Và Kim Luân đã
dùng sáng tạo nghệ thuật của mình,gây ra những bất ngờ cho người đọc ở
đầu truyện :”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy,một buổi chiều
người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.”Một người
đàn bà đã bước vào cuộc sống của Tràng.
Tràng có vợ.Người như
Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con gấu hoặc gốc cây xù
xì,trần trụi ấy,lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh
giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia,mà lại nhặt được
“thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc.Tràng có vợ một cách hiển hách,oanh
liệt,cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ
tán tỉnh,mà “cô nàng” đã vội vã theo không.Tưởng đâu một truyện truyền
kỳ về một thời thảm hại. Nhưng đó không phải là một chuyện cổ tích hay
theo một mô tuýp chàng ngốc gặp tiên nữ,nhưng đây lại là một sự thật
não lòng.Người vợ mà được Tràng nhặt về được trên đường đời thảm đạm
cũng thuộc về một dạng người giống như Tràng.Chân dung của chị ta cũng
là một bức ký họa khác với tự nhiên,với những đường nét tai hại cho
người phụ nữ:”cái ngực gầy lép,khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”,..gầy
xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn
bà đã làm đảo lộn cuộc đời Tràng.Nhưng khéo nhất là những dòng được
viết,Kim Lân cho ta nhận thấy:cái người phụ nữ đói rách kia còn xa mới
có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá,cái trơ
của người đàn bà lao động nghèo tài thế,sinh động đến là như thế.Kim
Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng không nanh
nọc,trơ trẽn.Và cũng chính cái cong cớn,sưng sỉa, đanh đá,trơ trẽn
kia,nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo,tâm tối chứ tuyệt không sinh
ra từ cái ác,cái xấu xa.
Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã
dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại như:”Rích bố cu,hở”,”Hà,ngon!Về
chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”,”Làm đếch gì có vợ.Này nói đùa chứ có
về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”. Đó là ngôn ngữ của
tình duyên,hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng
khao và người đàn bà cắm đầu ăn liền một chập,chẳng buông một lời trò
chuyện gì.Bốn bát bánh đúc trong những ngày tháng đói kém,chúng đủ phép
màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ đói rách sáng
lên.Có xót xa không,khi cái đói tuy mang lại nhiều đau khổ lại cũng có
thể xe duyên cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng nghèo khó. Điều
đó,ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và người
nông dân,nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những năm
nghèo đói mới chân thật đến như vậy,và những tình tiết có vẻ buồn cười
thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm thương cảm.Những trang
viết về những con người “dưới đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét
họ mà xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện
tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà chính
cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói.Ở đây
,tác giả không phải nói về những nét thấp kém của con người bộc lộ qua
nhân hình và nhân cách.Ngược lại ,với việc đặt nhân vật vào một khoảng
sống mờ tối,lắt lay,nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi
bất diệt của niềm khao khát thèm được sống, được thương yêu và hy
vọng.Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể diệt trừ cái đói hay sự u tối
của một tương lai không mấy sáng sủa và nó cũng không bị diệt trừ.Nó cứ
âm thầm vươn lên từ đói khát,tối tăm và chính bởi thế mà nó trở nên
cảm động và đáng qúy biết chừng nào.
Khi “nhặt” vợ về,Tràng
không phải là không biết suy nghĩ:”thóc gạo này đến cái thân mình cũng
chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”.Nhưng rồi anh lại tặc
lưỡi:”Chậc,kệ!”.Một quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự việc hết
sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ.Nhưng ta có thể hiều rằng,cái
tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là Tràng đã đánh cuộc với đời,với cái
nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi người. Đó là
khát vọng làm người mà một kẻ thô kệch,chất phác như Tràng vẫn có đã
khiến Tràng liều lĩnh một phen.Và Tràng cũng đã được đền bù:”Trong một
lúc,Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề,tăm tối hàng
ngày,quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa từng ngày,và quên cả
những tháng ngày trước mặt.Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa
giữa hắn và ngừơi đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ,lạ lắm,chưa từng tấhy
ở người đàn ông nghèo khổ ấy,nó ôm ấp,mơn man khắp da thịt Tràng,tựa
hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.”Qua đó,Kim Lân đã gieo vào
lòng người đọc những cảm xúc: Khác với những người có đầu óc bi quan
thường nghi,sự đói khát,nghèo khổ không làm giảm đi giá trị của lòng
người.Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất cả,ngay cả
khi người ta tưởng như rằng không còn cần gì hơn là một miếng cơm ăn.
Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim Lân,hạnh phúc, đến
lượt nó,lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng
hạn.Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm
qua.Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa xoa mãi vai
kia,chỉ vì đi bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ,muốn buông một câu
tình tứ mà chịu không sao nói nổi.Rồi đến khi vợ hỏi,anh chàng to xác
ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ nghệch,ngây thơ:”Có một mình
tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng,cũng đúng thôi,nhưng có
ai đã từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu,cái ngẩn
ngơ,những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây
thật là hạnh phúc.Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên
người vợ nhặt,ngẫm ra cũng không ít điều xót xa,cay đắng,nhưng ít nhất
cũng là một thứ xúc động,lâng lâng,bồi hồi,biến người đàn ông thô nhám
và chai sạn thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.
Cái chi
tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó không chỉ là một sự
việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười,một tiếng thở dài
thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua
có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử chỉ có vẻ
lãng mạn,ga-lăng lắm lắm.Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà
trước kia anh ta chưa từng có.cái hãnh diện được làm một người chồng,
đuợc có một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có lấy
một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ:”Hai hào đấy, đắt quá,có mà
thôi chả cần.”,một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp,nhưng trong cái
tội nghiệp đó là một niềm vui không tầm thường,bởi trong hoàn cảnh như
thế của Tràng lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn
hơn, trong trẻo,qúy báu hơn đâu có thể cho là một niềm vui hạ cấp?”
Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với
mẹ:”Kìa nhà tôi nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng
những lời thoại ít chữ,văn xuôi hết sức,những câu văn không hề cầu
kỳ,gọt giũa,mơ mộng,mà mang đậm phong cách làng quê và lại rất tình cảm
chứa đọng trong từng câu nói.Người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy,cái
người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy
là chỉ nhặt được,chưa trải qua cưới hỏi,chưa gặp mặt qua một lần,chưa
được mẹ chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng
của Tràng gọi nghe thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn
hoi,rành rọt trước mẹ Tràng,người đàn bà ấy và chính Tràng,một sự thật
hiển nhiên:”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”.Tuy sự xác nhận ấy có chút
nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được một cuộc sống của con người bình
thường:”Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ
lùng.Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái
nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng..Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người.”
Đó cũng là những ao ước của những người nông dân luôn mong có được một
gia đình hạnh phúc.Giống như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên
của Nam Cao,từng có khát vọng cùng Thị Nở xây dựng gia đình,dù rằng đi
làm thuê mướn cho người ta,cùng nhau mỗi ngày được thưởng thức “bát
cháo hành” của vợ.Chính những cái ước mơ vô cùng giản đị như thế đã tạo
nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt,và Kim Lân đã đưa vào
tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản ,tạo nên sự
đồng cảm thiết tha cho người đọc.
Nói về người vợ của
Tràng,người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân phận người phụ nữ của
mình trong cảnh đói nghèo,Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất vọng thầm kín
khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố nén trong
“cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách nát và rúm ró;cách
nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của anh
chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe “rích bố cu”;hai con mắt thoáng
tối lại khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám.và khi trên đường “rước
dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư.cái cô nàng cong cớn và trơ trẽn hồi nào
bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm trước những sự tò mò
trêu cợt thì cũng chỉ dám càu nhàu trong miệng,khẽ đến mức ông chồng đi
bên cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con đường về
nhà chồng,cả cái dáng điệu khép nép ngồi mớm ở mép giừơng và tiếng
chào u lúng túng..tất cả những cái đó chỉ làm cho người đàn bà gầy
nhom,xám xịt và rách rưới c1o được cảm giác m2inh đã là một nàng dâu
thực sự,một bông hoa đã có chủ.Và chính Tràng cũng ngạc nhiên trước
những thay đổi của nàng ta:”Tràng nom thị hôm nay khác lắm,rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như
mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”Cuộc đời éo le và nhận hậu bao nhiêu
dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu đi theo một người đàn
ông như Tràng ,xấu xí và xa lạ như để tránh sự cô đơn và nghèo đói.Thế
mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thoát được cái đói của cuộc
đời.Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà khác đó là
tình thân,tình thương,một mái ấm gia đình,một nghĩa vụ phải biết lo
lắng cho nửa kia của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn nói:dù đói
khổ,khó khăn vất vả nhưng không thể thiếu trong cuộc sống tình thương
yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta cảm thấy được mình vẫn là một
con người bình thường như bao người khác.
Kim Lân thật tài
trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng.Nó lửng lơ,với những câu
nói trổng không,dân dã,bình thường,nghe rất lạ lẫm đối với những cặp vợ
chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thoáng chốc trở
thành vợ chồng,ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn chưa hết ngượng
ngùng.Và nó không chỉ thể hiện qua lời nói,mà còn qua cái củng vào trán
cùng với một tiếng “dơ”,cái cười hì hì của gã đàn ông,và trước đó là
cái lườm của chị vợ..giống như nhân vật Thị Nở của Nam Cao:”Một người
đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm.”Nhưng đối với chị vợ của Tràng thì
đó còn là một người đàn bà đói rách đang đong đưa con mắt để quên cái
xấu,cái nghèo của mình mà nghĩ đến “tình yêu vợ chồng”.Một cái nét đẹp,
đáng quý, đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc của đời thường,nạn
nhân của xã hội nghèo khổ,nắm bắt ngay những thời cơ để được yêu, để
được biết thế nào là hạnh phúc, được hưởng thụ một lần trong đời và để
được sống như bao ngừơi khác,và nếm được hương vị của gia đình.
Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ
Tứ,mẹ của Tràng,một nhân vật làm nổi bật cái khát khao của hai chữ “gia
đình” lúc bấy giờ.Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng,mà đó là
một con ngừơi đã một kiếp phải sống trong nỗi đau,vất vả,nuôi con khôn
lớn.Và cũng chính cái kinh nghiệm từng trải,lòng ám ảnh của một quá
khứ nặng nề với nhiều nỗi đắng cay và những băn khoăn của người làm
mẹ:”Bà lão nhớ đến ông lão,nghĩ đến đứa con gái út.Bà lão nghĩ đến cuộc
đời cực khổ dái dằng dặc của mình.Vợ chồng chúng nó lấy nhau,cuộc đời
chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng
bà cụ Tứ về những nghịch cảnh éo le của việc hôn nhân, đặc biệt là một
cuộc hôn nhân “vội vã” và trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích
hợp.Và bà cụ cũng tự nghĩ rằng đó là một duyên kiếp không nên có:”Chao
ôi,người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm
nổi,những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.Còn mình thì…biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.Nhưng
sự tình đã rồi,trứơc mắt bà là ngừơi con dâu,mặt cúi xuống,”tay vân vê
tà áo đã rách bợt”.Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ
là một cơ may:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này,người ta mới
lấy đến con mình.Mà con mình mới có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là
mẹ,bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn nghe thật cảm động nhưng có
chút gì nhoi nhói,một chút tủi hờn,ai oán số phận,nén cái cảm giác bất
đắc dĩ trứơc việc đã bày ra trứơc mắt,hoà với chút rưng rưng,xao xuyến
một niềm vui.Qua đó ta càng lại thấy qúy trọng người mẹ chồng này hơn
khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới:”Thôi thì các con đã phải duyên
phải kiếp với nhau,u cũng mừng lòng”,lột tả cái thần thái của tấm lòng
vị tha cao cả,giấu đi những giọt nứơc mắt xót thương vì sợ gây cho người
mình thương xót nhiều lo lắng:”Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho
sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ.” Đó là thứ ánh sáng mờ trong
đêm tối,một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định,một thứ không biết
lúc nào tắt,nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho
vợ chồng Tràng.Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng nhất:từ
cái việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín
đáo;rồi việc”khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” và những ước mơ nghe
thấy chạnh lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có ra thì rồi con cái chúng
mày về sau.”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì cao xa,bà
chỉ ao ước cho con mình,cho gia đình ,cho thế hệ con cháu mai sau,vun
vén những gì tốt đẹp nhất cho con cháu..Có ai ngờ rằng một bà cụ đang
chờ về thế giới bên kia,lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi
theo năm tháng và tuổi tác.
Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề
trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh thể nghệ thuật chung.Ta có thể
thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa vợ về nhà,cái nhìn của người dân xóm
chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về
bến”,:”Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn
lên.Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát,tăm tối
ấy của họ.”,rồi sau đó là “một người thở dài”,và sau tiếng cười rung
rúc bất chợt nổi lên là sự nín lặng_nín lặng của nỗi buồn lo.Rồi lại
trong lời bà cụ nói:”Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi.năm
nay thì đói to đấy.Chúng mày lấy nhau lúc này,u thương quá…”.Và rõ nhất
là những giờ phút hạnh phúc của đôi vợ chồng son trên cái nền âm thanh
của tiếng ai hờ khóc người chết đói cứ tỉ tê lúc to lúc nhỏ,dai dẳng
tận đêm khuya.Sự đan xen tình huống truyện ngây ngô của những ngừơi
nông dân chất phác,bình thường với những ước mơ nhỏ nhoi giữa một thế
giới ,một tương lai mở nhạt, một cuộc sống u ám, ranh giới giữa sự sống
và cái chết.
Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người
và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”.Mở đầu là một
anh Tràng cô đơn bước cao bứơc thấp trên con đường khẳng khiu dưới ánh
chiều mờ của một gầm trời đầy đói khát,nhưng kết thúc là Tràng đã có
một gia đình,mọi ngừơi đang xăm xắn quét tước,thu dọn nhà cửa cho quang
qủe và cố làm cho nhau vui trứơc một bữa ăn loãng thếch và đáng
chát,và cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi hờn trứơc việc phải ăn món
ăn vốn không phải là của con người,rồi lại tiếng trống thúc thuế trên
mảnh đất đầy người chết đói,xua đoàn quạ hốt hoảng vù bay,khiến nền
trời thành đen vẩn.Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình
ảnh lá cờ đõ phấp phới trong óc Tràng.Anh đã nhận thức được con đường
để thoát nghèo đói là đấu tranh,hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý
tưởng đúng đắn nói riêng,và tinh thần đấu tranh của người nông dân đang
thôi th1uc họ mạnh mẽ tháot khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng
rực cháy về một tương lai sáng sủa,một khát vọng tình yêu,hơi ấm gia
đình,hoà bình và tự do.Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của
những người nông dân rũ bùn đứng dậy sáng loà,chiến đấu vì đất nứơc,vì
để thoát khỏi số phận tối tăm trứơc mắt.Hình dáng người nông dân nổi
bật trước lá cờ đỏ sao vàng,lá cờ lý tưởng cách mạng,lá cờ của niềm tin
chiến thắng.Và qua đó nói lên một niềm tin,một hy vọng tràn trề về một
chiến thắng,sự thoát khỏi cuộc sống cơ cực và hai từ “hoà bình” ,”tự
do”.
Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc,mang đậm tính
chất nông thôn,cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng
theo ,giản dị vô cùng mà vẫn ánh lên được chất hào hoa Kinh Bắc.những
tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua những cử chỉ hành động
một cách tinh tế :tiếng gắt vô duyên vô cớ,một tiếng khẽ ho bình
thừơng,những bứơc chân bứơc vội ra sân,thái độ điềm nhiên và miếng cám
vào trong miệng…Nhưng cái đọng lại cúôi cùng là cái nhìn đời,nhìn đời
đầy xót xa và thương yêu của nhà văn,là niềm tin mà ông muốn trao gửi
đến tất cả chúng ta qua tác phẩm.Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi
chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bản lưu giữ cho nâhn dân là bất
diệt,và con ngừơi không có kháo khát chính đáng nào hơn là khao khát
được sống như một con người, được nên ngừơ,có được mái ấm gia đình,một
cuộc sống ấm no đầy đủ,tình yêu đôi lứa,niềm hạnh phúc trong cuộc sống
và tình thương yêu giữa người với người,và để bảo vệ chính mình, để
thoát khỏi sự áp bức, đói khổ,những ngừơi nông dân trở thành lá cờ đầu
cho công cuộc bảo vệ đất nứơc.
Có thể nói,tác phẩm truyện ngắn
“Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp nối của những tác phẩm văn chương
hiện thực phê phán như của Nam Cao,Tô Hoài,…từ trứơc Cách mạng tháng
Tám .Vẫn những mảnh đời éo le,bất hạnh,hay gặp những mảnh đời khó khăn
trong những tình huống dở khóc dở cười,hay trong tác phẩm này,chúng ta
lại thấy một cuộc sống của những ngừơi nông dân sau Cách mạng trong cái
đói nghèo của một xã hội cần được phải cải thiện mới, đó là những
người có một tâm hồn trong sáng,tràn đầy lòng yêu thương,luôn luôn ấp ủ
trong tâm hồn mình những hy vọng, ước ao nhỏ bé ,hồn hậu.Chính Kim Lân
đã đưa người đọc quay về một thời đen tối của nạn đói,qua đó ngừơi đọc
đồng cảm ,xúc động cho những số phận, những mảnh đời bất hạnh
sống.Người đọc còn nhận ra điều Kim Lân muốn gửi gắm đã nêu ở trên.
Nhữnghình ảnh,chi tiết về anh Tràng cùng chị vợ trong cuộc hôn nhân
“vội vàng”,e ấp,ngại ngùng trên đường về nhà và hình ảnh bà cụ Tứ trong
hình ảnh một ngừơi mẹ,một ngừơi từng trải ,về những băn khoăn cho con
cái thật sự làm đau đớn,chạnh lòng khi đọc đến những câu văn tha
thiết,súc tích biết dường nàoBản thân tôi, khi đọc những dòng văn mà
Kim Lân viết,tôi đã có rất nhiều cảm xúc,những cảm xúc tự hào về cha
ông đã không vì nạn đói,nguy nan trứơc mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng nên
đất nứơc Việt Nam như ngày hôm nay,cảm xúc về những ngừơi nông dân
bình dị nhưng lại chất chứa bên trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng
đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua ,nhưng những hình ảnh về một
thời đ1oi khổ,một thời chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn hiện lại trong
tôi như mới đây thôi. Điều đó càng làm tôi cảm thấy mình có trách
nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước mà chính những
người nông dân,và ông cha ta đã gầy dựng.
2 Coimments:
Cập nhật thêm đi bạn
:F) :F) ukm !
Góp Ý- Liên Lạc || Về Tác Giả || Tài Sản