Tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân đã tạc lưu lại trong tâm trí
người đọc không chỉ bởi một ấn tượng dễ gọi mang tên nỗi ám ảnh về cái
đói, cái cùng của những người nông dân sống trong đêm trước Cách mạng.
Những tháng ngày 1945 ấy, cái đói cứ bao vây nơi nơi, tưởng đâu đâu
cũng ngửi thấy "mùi đói". Làng quê chìm trong ko khí tang thương với
tiếng quạ kêu quang quác,tiếng khóc hờ của những nhà có người chết đói
và thân vận rẻ rúng của bao cảnh đời: người ta có thể nhặt được vợ giữa
đường chợ chỉ với 4 bát bánh đúc và mấy câu đùa cợt.... Tạm gác lại
cái cứu cánh nội dung ấy, lật giở lại tác phẩm và để lòng ta lắng lại
với những dư vị của cảm xúc. Ta đã hiểu... Nếu như nói đến văn học là
nói đến 1 phạm trù ko giới hạn của nghệ thuật, có khả năng gợi mở mọi
chiều kích của các giác quan và trường liên tưởng, thì đây: với tác
phẩm vợ nhặt này ta không chỉ biết đến 1 anh Tràng thô nhám, cục mịch
mà có lúc ngượng nghịu, ngẩn ngơ như một đứa trẻ lớn hiền lành, 1 chị
vợ "chao chát, chỏng lỏn" mà "hiền hậu, đúng mực", ta còn biết đến 1
nhân vật nữa: một nv giữ cho câu chuyện "VN" có chiều sâu, mang lại cho
tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Đó là nhân vật bà cụ Tứ. Càng đọc, càng
ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng của người mẹ nông dân
này.
Đến khoảng giữa câu chuyện, Kim Lân mới cho nhân vật Bà cụ Tứ
xuất hiện như để hoàn chỉnh hơn ý niệm về một gia đình, trong mối quan
hệ "mẹ chồng nàng dâu" với người "vợ nhặt". Nhưng hẳn không chỉ thế.
Hãy xem cách mà Kim Lân dẫn dắt chúng ta đến với nhân vật. Bắt đầu là
cái dáng "lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong
miệng".... Chao ôi! những câu giản dị nhường ấy mà chất chứa bao yêu
thương trìu mến. Ta gặp lại cái dáng gầy gầy, còng còng vì sương gió
cuộc đời của người bà quen thuộc. Từ "lọng khọng" đầy sáng tạo và có
sức gợi hình, gợi tả tạc lại trong ta một dáng hình. Có phải không? Kim
Lân đã gửi trọn tấm lòng kính yêu của mình để cảm thông cùng với những
nỗi đau suốt một đời đã đè nặng lên đôi vai người mẹ. Vả chăng, với
nhân vật bà lão, nhà văn còn có dịp nhìn việc lấy vợ của Tràng từ một
góc độ khác, trong 1 tâm trạng khác. Tôi những muốn viết ngay về những
diễn biến phức tạp trong tâm hồn người mẹ khi biết đứa con trai xấu xí,
cục mịch của mình đã lấy được vợ lại giữa 1 hoàn cảnh đặc biệt éo le.
Nhưng, 1 ấn tượng nữa về bà lão cứ hiển hiện trong tâm trí tôi - 1 ấn
tượng dù chỉ thoáng gặp nhưng cũng thật khó quên. Tôi đã lần theo từng
câu chữ của tác phẩm và tìm thấy những dòng tâm trạng này: "Bà lão đăm
đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa, dòng sông
sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà
có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ một hơi dài.
Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà nghĩ đến cuộc đời
khổ cực dằng dặc của mình" Ta biết được người phụ nữ nông dân này có
một số phận đầy bất hạnh. Cuộc đời bà là một chuỗi ngày khổ đau, tê
tái. Bà đã vĩnh viễn mất đi người chồng và đứa con gái út yêu thương..
Dẫu biết thời gian có thể xoá nhoà đi tất cả nhưng vết thương lòng đâu
dễ biến tan. Ta không gặp 1 cơn hấp hối trong đau đớn, cũng chẳng gặp
những quằn quại quay quắt, ta chỉ gặp ở đó 1 con người của hiện tại với
1 cái thở dài đầy chiêm nghiệm đang nhìn trông về bờ quá khứ. Điều ấy
lý giải vì sao con người già cả ấy lại quen đánh giá sự việc bằng kinh
nghiệm và sự từng trải, bằng 1 nỗi lòng đầy ám ảnh của 1 quá vãng nặng
trĩu những đắng cay.
Ai đã từng nói rằng: "Văn chương là lịch sử tâm
trạng của con người". Nếu đúng như vậy thì Kim Lân quả là 1 nhà văn
đích thực trên cái ý nghĩa ấy. Ngòi bút của ông đã thêm 1 lần chấm vào
nghiên mực cuôc đời để khắc hoạ lại hình ảnh của nhân vật bà cụ Tứ với
những diễn biến tâm trạng đầy tinh tế. Tưởng như, bà cụ Tứ bước từ căn
nhà rúm ró, tồi tàn của mình đi vào trang truyện chứ ko hề do dụng công
xây dựng của tác giả. Hình ảnh bà - hình ảnh của người mẹ nông dân
Việt Nam 1945 hiện lên chân thực như nó vốn có qua những lời nói tưởng
như ngớ ngẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình. Cuộc đời tuy có mất mát
nhưng cũng không cướp đi của bà tất cả. Bà vẫn còn có anh Tràng - đứa
con trai độc nhất để yêu thương chăm sóc. Làm mẹ, ai cũng mong cho con
mình chóng khôn lớn, trưởng thành và yên bề gia thất. Rồi cái ngày hạnh
phúc ấy cũng đã đến: cái ngày anh Tràng lấy vợ. Những tưởng niềm vui ánh
lên rạng ngời trong trái tim già cỗi ấy, nhưng lòng người mẹ lại ngổn
ngang bao tâm sự thầm kín. Dạo đầu của chuỗi tâm trạng ấy là 1 loạt
những câu hỏi đầy vẻ ngạc nhiên, thắc mắc: "Người đàn bà nào lại đứng ở
đầu giường con mình thế kia?"
"ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?". Phải, làm sao bà ngờ được lại
có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói mỏi, nhà lại nghèo
mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến với bà quá
nhanh. Chính bởi tình huống hết sức đặc biệt này của câu chuyện "vợ
nhặt", mọi diễn biến nội tại đã được đẩy lên đến cao trào, trở thành 1
sợi chỉ xuyên suốt làm cho mạch tp đi theo 1 chiều hướng rất logic của
tâm lý nhân vật. Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác, tới mức: "không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa". "Bà lão nhấp
nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì
phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào.
Bà quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu".
Tâm trạng cứ băn khoăn như
thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông qua lời xác nhận của con
trai: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ..." Lúc ấy tâm trạng
của người mẹ lại bước sang 1 trang khác, hứa hẹn nhiều biến động hơn và
tinh tế hơn. Kim Lân đã không tả thêm nữa những suy nghĩ, những căn
vặn trong tâm não của nhân vật, hay những động thái tâm lý phức tạp
khác, mà chỉ đơn giản là 1 cái "cúi đầu nín lặng". Không chỉ là câu
trần thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng rưng tấm lòng hoà cảm đầy
ân tình của Kim Lân. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong cái im lặng cúi
đầu ấy. Cái im lặng tủi phận. Cái im lặng cam chịu. Cái im lặng xót
xa. Bà thương thầm cho cái số kiếp của đứa con trai độc nhất. Vì người
mẹ ấy giờ đây ý thức rõ hơn vợ chồng Tràng rất nhiều về cái nghịch cảnh
quá éo le, nghiệt ngã của cuộc hôn nhân này. Chừng ấy năm sống trên
đời mách bảo bà lão 1 điều rằng: mối duyên kiếp trớ trêu kia hình như
không nên có. "Chao ôi! người ta dựng vơ gả chồng cho con là lúc gia
đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này - còn
mình thì..." Bao nhiêu ngập ngừng, tủi cực, chua xót dồn nén sau chữ
"thì" vô vọng ấy. Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận của người
mẹ: ko lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây, giữa lúc người chết đói
"như ngả rạ", lại có người theo con trai mình về làm vợ. Người mẹ bị
dồn vào cảnh túng quẫn, khó xử, không biết lấy gì cúng tổ tiên, trình
làng khi con đã có vợ. Cái buồn, cái tủi lại chan đầy nước mắt, và bà
đâm khóc vì thương con, thương dâu ko biết làm sao đây để vượt qua cơn
khốn khó này: "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống 2 hàng nước mắt",
lý trí đã ko ngăn nổi tình cảm. Kim Lân như 1 nhà quay phim tài ba đầy
cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh, thước phim
từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim 1 đời vất vả của
người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra 2
dòng nước mắt khô héo. Nước mắt của người già, mà như Nguyễn Khuyến xưa
đã từng viết trong "Khóc Dương Khuê":
"Tuổi già hạt lê như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan"
Thời
gian là kẻ khách quan và quá đỗi vô tình, nó đã mang đi tuổi thanh
xuân của mẹ cùng bao lo toan, nhọc nhằn, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ
khó có thể khóc được nữa, bởi "nước mắt người già chảy ngược vào tim".
Khi mẹ khóc tức là mẹ đang đau lắm. Một người mẹ thương con như bà cụ
Tứ ko đau sao được khi chứng kiến cảnh con mình lấy vợ trong 1 hiện
thực và tương lai ảm đạm đến thế. Và bà đã lo lắng để rồi tự cật vấn:
"Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này
không". Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong
cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa như xát muối. Bà
thương con, tủi phận để rồi lại thương dâu: Bà "đăm đăm nhìn người đàn
bà" như để nhận mặt người đồng hành khốn cùng trong cuộc đời khổ nghèo.
Người con dâu đứng đấy, tay "vân vê tà áo đã rách bợt". Và cũng từ đó
đã thức dậy trong bà lão bao ý nghĩ nhân đạo và một sự hàm ơn: "Ngườita
có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo
được cho con..." Câu văn thật cảm động! Nó vừa nhoi nhói 1 tình cảm tủi
hờn, ai oán cho số kiếp, vừa như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước 1
sự việc đã rồi, lại vừa rưng rưng, xao xuyến 1 niềm vui. Những lời độc
thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ, vừa khắc khoải,
dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những
rung cảm xót xa trong trái tim nhân đạo của Kim Lân. Ta cũng thấy tim
ta thổn thức cùng với những trăn trở bình dị mà xiết bao ân tình. Đẹp
biết bao 2 tiếng "mừng lòng" của bà lão nói với các con. Chữ "mừng"
thật là đắc địa, có vẻ như ko đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại
lột tả đúng cái thần thái của 1 tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng
ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót thương vì sợ phiền
lòng cho chính người mình đang thương xót. "Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên 1
tí cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ". Người mẹ già như cố
nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình thương của
mình an ủi các con. Nỗi lo sợ ngày mai mãi chỉ là 1 niềm riêng không
chia sẻ. Bới trái tim người mẹ ấy hiền hậu nhân từ lắm. Chẳng muốn con
buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong con hãy tận hưởng trọn vẹn cái hạnh
phúc lứa đôi. Đến đây, ta càng thấm thía hơn 1 câu danh ngôn: "tình yêu
thương của người mẹ dành cho con luôn âm thầm, lặng lẽ như mạch nước
ngầm trong lành đi theo con suốt cuộc đời". Suối nguồn của tình mẹ và
những giọt nước mắt, giọt mồ hôi thật thiêng liêng và đáng quý vô cùng.
Rồi có ai đã từng ví trong câu hát "tình mẹ bao la như biển Thái Bình
dạt dào", thì đây, những giọt nước mắt buồn thương vẫn mặn mà, nồng ấm,
vẫn âm vang nhịp đập thuỷ triều. Mẹ kêu con thắp đèn lên "cho sáng
sủa" hay chính tình yêu bao la của mẹ đang toả sáng cho hạnh phúc của
các con. Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ
với con dâu, ta tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói
này: "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân". Còn đâu là
ranh giới giữa mẹ chồng - nàng dâu? Hay tình yêu thương đã xoá nhoà đi
tất cả. Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước
mắt: "kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình
nghèo... lấy nhau lúc này u thương quá....". "Lúc này" ở đây chính là
thời điểm năm 1945 - cái mốc in dấu 1 nạn đói khủng khiếp đã đi vào
lịch sử: "hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói" (Tuyên ngôn độc lập), câu
nói ấy vẫn còn vang lên như 1 chứng tích tội ác của thực dan Pháp, ko
khí quê hương "vẩn lên 1 mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người", "dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ
đi lại như những bóng ma". Ấy vậy mà, "như bèo gặp nước", vợ chồng
Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ.
Thử hỏi sao lòng người mẹ ko đau đáu. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng
thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là
nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu
con sâu thẳm... Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy
được niềm vui, niềm tin thắp lên trong lòng bà cụ Tứ. Một niềm vui tội
nghiệp ko sao cất cánh được khi bị "ghì sát đất" bởi những nỗi lo, nỗi
buồn luôn trĩu nặng. Nhưng bà vẫn cố vui, cố nén tất cả mọi sầu muộn,
héo hon vào trong bằng tất cả sức mạnh của tình mẹ, để gắng làm cho con
vui, dâu vui. Hoá ra chính cái bà lão "gần đất xa trời" này lại là
người nói đến hi vọng, đến ngày mai nhiều hơn tất cả. Đó là niềm ao ước
thiết tha về 1 ngày mai sáng sủa hơn cho con của bà mẹ nghèo: "Rồi may
ông giời cho khá....ai giàu ba họ, ai khó ba đời..." Một lời động viên
con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của 1 bà mẹ nông dân từng
trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho
mẹ con bà đủ vững vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái
đói, cái chết. Câu nói ấy chỉ có thể thốt lên từ 1 tấm lòng cao cả,
tràn ngập tình thương. Nhưng ai dám bảo đó là 1 niềm tin, sự lạc quan
khoẻ khoắn, bởi chính trong tâm trạng người mẹ ngay lúc này đây cũng
đang bời bời những lo sợ cho cuộc sống của ngày mai. Chỉ có thể nói đó
là 1 niềm tin bé nhỏ mà bất diệt, âm ỉ và dai dẳng tiếp thêm sức mạnh
cho con trên sinh lộ cuộc đời. Và niềm tin đã chuyển hoá thành niềm
vui. Bà vui trong công việc "sửa sang nhà cửa vườn tược". Nó khiến bà
nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, "cái mặt bủng beo, u ám của bà
bỗng rạng rỡ hẳn lên". Bà đã chủ động tạo nên niềm vui đó trong ngày
đầu tiên gia đình đón chào 1 nàng dâu mới: bà dậy từ rất sớm, bà "xăm
xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong
vườn". Bởi bà hiểu rằng, bắt đầu từ hôm nay đã đánh dấu
1 bước ngoặt
trong cuộc đời các con mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và bà cảm
thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các con. Buổi sáng hôm nay, bà
đã đon đả lo chu tất, chuẩn bị bữa cơm đón dâu, nhưng "cái bữa cơm
ngày đói thật thảm hại" lại chỉ là 1 bữa "tiệc" với món cháo loãng và
món "chè khoán" đắng chát, nhưng bà vẫn cố tạo ra 1 không khí ấm cúng,
vui vẻ để động viên, làm giảm bớt nỗi thất vọng cho các con. Dù cuộc
sống này có khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo, đầy đoạ mẹ con bà, bà
vẫn nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, chuyện nuôi đoi gà
cho nó sinh sôi nảy nở thành đàn gà con... Người mẹ già ấy vẫn nghĩ đến
cái sống, nghĩ đến ánh sáng của ngày mai ngay bên bờ vực thẳm của cái
chết. Hình ảnh đàn gà sinh sôi trong bữa cơm ngày đói đã nói lên sức
sống kì diệu của người lao động.
Nhưng xúc động nhất là nồi chám cám mà bà đã cố tình giấu con trai,
con dâu cho đến phút cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào
hứng vui vẻ khi bà "lễ mễ bưng nồi cháo cám nghi ngút khói" lên nhà,
tươi cười đon đả múc cho các con rồi mời mọc: "cám đấy mày ạ, hì. Ngon
đáo để, cứ ăn thử mà xem". Nhưng ta biết, bên trong cái vẻ tươi tỉnh
niềm nở ấy, lòng mẹ đang quặn thắt. Cái món mà bà cụ Tứ gọi là "chè
khoán" ấy hoá ra lại là cám, gọi như vậy để cho các con bớt tủi thân,
lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi. Bà muốn con được no đủ, hạnh
phúc trong 1 việc làm mà bà cố gắng tạo nên dẫu biết rằng đó chỉ là ảo
giác, sau đó thực tại sẽ lại trở về nguyên bản, bẽ bàng và chua chát.
Dường như bà có ý xua tan đi không khí ảm đạm, cố che đậy, vùi đi thực
cảnh thê lương. Nhưng thật tội nghiệp cho bà lão, tội nghiệp thay cho
cái niềm vui bé nhỏ chới với giữa 1 bể bi luỵ, khi mà màu sắc của hiện
tại phải được trả về đúng nghĩa của nó. "Bà ko dám để con dâu nhìn thấy
bà khóc". Một lần nữa, người mẹ lại nuốt đắng cay vào trong để cái hi
vọng mong manh còn đủ sức soi đường con bước. Những giọt nữa mắt lại
rơi. Những giọt nước mắt ám ảnh ấy....
Có thể, người đàn bà ấy chẳng
còn sống, còn gần các con được lâu nữa. Nhưng bà sống trọn 1 đời vì các
con, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình trong sự chăm lo, vun vén cho con,
mơ ước cho con. Bằng tất cả sự nâng niu trân trọng, Kim Lân đã để trái
tim đập cùng 1 nhịp đập với trái tim người mẹ nông dân. Viết về bà cụ
Tứ, nhà văn thực sự đã trở thành "người nhân đạo đến tận xương tuỷ" -
(Sê khôp)
Nhà văn Tô Hoài có lần đã khẳng định: "Nhân vật là trụ cột
của sáng tác, nhà văn trước tiên phải lo cho nhân vật của mình. Nhà văn
nói bằng nhân vật, thông qua nhân vật, nhân vật là phương tiện để nhà
văn thể hiện chủ đề và tinh thần tác phẩm". Thì đây, nhân vật bà cụ Tứ
đã cho ta hiểu bao điều về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ dành
cho con. Bà chính là là linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tình
mẫu tử, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt nam: rất nhân
hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun
đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và
truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con. Người mẹ già ấy
phải chăng chính là ánh sáng của cả thiên truyện, lặng thầm đằng sau
bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ. Ánh sáng ấy làm cho câu
chuyện anh Tràng nhặt vợ trở nên thấm thía cảm động hơn, nâng truyện
ngắn "Vợ nhặt" lên tầm cao, mang chiều sâu của 1 truyện ngắn "hiện thực -
nhân bản". Ta thấy cái nhìn đồng cảm xót thương của Kim Lân chứa chan,
thấm đượm trong từng câu, từng chữ, từng chi tiết của bức tranh đời
sống nạn đói năm Ất Dậu, đằng sau những giọt nước mắt, những lời độc
thoại được chắt ra từ 1 tâm hồn cao đẹp. Và, có phải, thông qua hình
tượng nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân còn muốn ngầm đi đến 1 lý giải nguyên
nhân: vì sao thời ấy dù Tràng và biết bao người như Tràng phải chịu
muôn vàn nỗi cực khổ, đè nén nhưng vẫn vượt lên và còn có khả năng nghĩ
tới những điều như: "Việt Minh, lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới
và đoàn người đi phá kho thóc".
0 Coimments:
Góp Ý- Liên Lạc || Về Tác Giả || Tài Sản